MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2019
Còn khoảng 11 tháng nữa, Bộ luật Lao động 2019 (“BLLĐ 2019”) sẽ có hiệu lực (bắt đầu từ ngày 01/01/2021). BLLĐ 2019 nhìn chung không có quá nhiều sự thay đổi so với BLLĐ 2012. Một số điểm thay đổi nổi bật có lẽ cũng đã được thông tin rộng rãi thông qua các cuộc thảo luận, lấy ý kiến sôi nổi trong thời gian soạn thảo và thông qua BLLĐ 2019. Tuy nhiên, thông qua bài viết này, tác giả mong muốn đào sâu hơn những sự thay đổi này.
1. Người làm việc không có quan hệ lao động và Hợp đồng cộng tác viên
Khoản 1 Điều 2 BLLĐ 2019 quy định:
“Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Người lao động, người học nghề, người tập nghề và người làm việc không có quan hệ lao động.
…”
Khác với BLLĐ 2012, BLLĐ 2019 quy định thêm đối tượng áp dụng là “người làm việc không có quan hệ lao động”. Vậy, “người làm việc không có quan hệ lao động” là những người làm việc trong những trường hợp nào?
Khoản 6 Điều 3 BLLĐ 2019 quy định:
“Người làm việc không có quan hệ lao động là người làm việc không trên cơ sở thuê mướn bằng hợp đồng lao động.”
Việc mở rộng đối tượng áp dụng được Ủy ban Thường vụ Quốc hội lý giải trong báo cáo tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự thảo BLLĐ 2019 như sau:
“Việc quy định mở rộng phạm vi áp dụng và đối tượng điều chỉnh mang tính nguyên tắc chung để việc áp dụng các quy định về một số tiêu chuẩn, điều kiện lao động bảo đảm linh hoạt, phù hợp với thực tế thị trường lao động như tiền lương, an toàn, vệ sinh lao động, bảo hiểm xã hội, chống phân biệt đối xử, lạm dụng tình dục tại nơi làm việc, bảo vệ một số đối tượng lao động đặc thù (trẻ em, người cao tuổi, lao động nữ…).”
Hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp đang thực tế sử dụng lao động và trả tiền công, tiền lương theo tháng nhưng lại ký kết với người lao động theo hình thức Hợp đồng cộng tác viên để tránh đóng bảo hiểm xã hội, tránh sự điều chỉnh của mức lương tối thiểu vùng hoặc những quy định có lợi cho người lao động theo BLLĐ, … Vậy thì những người làm việc theo Hợp đồng cộng tác viên này có được xem là người làm việc không có quan hệ lao động không?
Khoản 1 Điều 13 BLLĐ 2019 quy định như sau:
“Trường hợp hai bên thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên thì được coi là hợp đồng lao động.”
Như vậy, BLLĐ 2019 không xác định hợp đồng lao động dựa trên tên gọi của hợp đồng mà căn cứ trên mối quan hệ thật sự giữa các bên thông qua các điều khoản trong hợp đồng. Do đó, những Hợp đồng cộng tác viên nào có nội dung thể hiện cộng tác viên được trả công, trả lương và phải chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của doanh nghiệp như: tuân thủ nội quy lao động, các chính sách nội bộ, .. của doanh nghiệp thì khả năng rất lớn sẽ bị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định là hợp đồng lao động.
2. Quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của người lao động
BLLĐ 2019 đã có sự thay đổi theo hướng có lợi hơn cho người lao động so với BLLĐ 2012 về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Cụ thể, BLLĐ 2019 đã có 2 điểm mới sau:
(i) Bỏ điều kiện phát sinh quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, ngoại trừ điều kiện về thời hạn báo trước.
Theo BLLĐ 2012, người lao động theo hợp đồng lao động xác định thời hạn chỉ được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong một số trường hợp được quy định từ Điểm a đến Điểm g Khoản 1 Điều 37. Trước đây, có nhiều người và chính tác giả cũng bị nhầm lẫn rằng chỉ cần báo trước theo thời hạn luật định với bất kỳ lý do nào.
Với quy định tại BLLĐ 2019, người lao động có thể được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bất kỳ lý do nào nhưng phải thông báo cho người sử dụng lao động trước 30 ngày.
(ii) Quy định mới một số trường hợp được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần báo trước.
BLLĐ 2019 cho phép người lao động được chấm dứt hợp đồng lao động ngay lập tức nếu rơi vào các trường hợp được quy định từ Điểm a đến Điểm g Khoản 2 Điều 35. Những trường hợp được liệt kê tại Khoản 2 Điều 35 BLLĐ 2019 hầu hết là các trường hợp mà BLLĐ 2012 cho phép người lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, cụ thể như sau:
“2. Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần báo trước trong trường hợp sau đây:
a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận, trừ trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này;
b) Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 97 của Bộ luật này;
c) Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động;
d) Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc;
đ) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật này;
e) Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật này, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;
g) Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực theo quy định tại khoản 1 Điều 16 của Bộ luật này làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động.”
Khi trình Quốc hội thông qua dự thảo BLLĐ 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã giải thích về việc đề xuất quy định mới trên như sau:
“Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, để nâng cao vị thế, bảo đảm tốt hơn quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm của người lao động, đồng thời thúc đẩy việc người sử dụng lao động có trách nhiệm hơn trong bảo đảm điều kiện làm việc, tiền lương và các điều kiện khác để thu hút, tạo sự gắn bó của người lao động, Điều 35 dự thảo Bộ luật đã chỉnh lý theo hướng người lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần lý do nhưng phải bảo đảm thời hạn báo trước (Phương án 1 Chính phủ trình).”
4. Tuổi nghỉ hưu
BLLĐ 2019 đã có sự điều chỉnh về tuổi nghỉ hưu theo hướng kéo dài hơn. Trước khi BLLĐ 2019 được thông qua, nhiều ý kiến đã phản đối quy định này. Có thể tham khảo tại:
Việc tăng tuổi nghỉ hưu sẽ được tăng lên nhưng theo lộ trình từng năm, cụ thể được quy định tại Khoản 2 Điều 169 BLLĐ 2019 như sau:
“2. Tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035.
Kể từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 03 tháng đối với lao động nam và đủ 55 tuổi 04 tháng đối với lao động nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 03 tháng đối với lao động nam và 04 tháng đối với lao động nữ.”
5. Nghỉ lễ, tết
So với BLLĐ 2012, BLLĐ 2019 cho người lao động được nghỉ thêm 01 ngày được hưởng nguyên lương. Sau nhiều ý kiến đề xuất lựa chọn ngày nghỉ, Quốc hội đã thông qua để xuất của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Nội dung đề xuất như sau:
“Đồng thời, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo thêm như sau: mặc dù có ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị ngày nghỉ hưởng nguyên lương nên chọn Ngày Gia đình Việt Nam (28/6), tuy nhiên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, nếu được Quốc hội quyết nghị bổ sung thêm một ngày nghỉ trong năm thì nên chọn ngày liền kề với Ngày Quốc khánh 02/9. Như vậy, ngày Quốc khánh nước ta, người lao động sẽ được nghỉ hai ngày. Đây là ngày Tết Độc lập, cũng là dịp để người lao động có thêm thời gian tham gia các hoạt động kỷ niệm, chào mừng Quốc khánh 02/9, tăng thêm ý nghĩa chính trị, nâng cao niềm tự hào dân tộc về sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng thời, đáp ứng được mong muốn của người lao động có thêm thời gian nghỉ ngơi, sum họp gia đình và giúp trẻ em, học sinh, sinh viên chuẩn bị cho ngày khai giảng năm học mới.”
Điểm đ Khoản 1 Điều 112 BLLĐ 2019 quy định:
“đ) Quốc khánh: 02 ngày (ngày 02 tháng 9 dương lịch và 01 ngày liền kề trước hoặc sau)”
Theo Võ Đức Ân- bantinluat.com
Tuyên bố trách nhiệm: Bài viết được lấy nguyên văn từ nguồn tin nêu trên. Mọi thắc mắc về nội dung bài viết xin liên hệ trực tiếp với tác giả. Chúng tôi sẽ sửa, hoặc xóa bài viết nếu nhận được yêu cầu từ phía tác giả hoặc nếu bài gốc được sửa, hoặc xóa, nhưng vẫn bảo đảm nội dung được lấy nguyên văn từ bản gốc