Một trong những mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020 đã được đề ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII cũng như Nghị quyết của Quốc hội [1] thông qua đặt ra đòi hỏi “phải đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, nâng cao chất lượng tăng trưởng, phát triển theo chiều sâu dựa trên tri thức đổi mới, sáng tạo, khoa học và công nghệ cao, trong đó doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân là động lực nâng cao sức cạnh tranh và tính tự chủ của nền kinh tế”.
1. Đặt vấn đề
Một trong những mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020 đã được đề ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII cũng như Nghị quyết của Quốc hội [1] thông qua đặt ra đòi hỏi “phải đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, nâng cao chất lượng tăng trưởng, phát triển theo chiều sâu dựa trên tri thức đổi mới, sáng tạo, khoa học và công nghệ cao, trong đó doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân là động lực nâng cao sức cạnh tranh và tính tự chủ của nền kinh tế”. Để thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu trên, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 (sau đây gọi chung là Nghị quyết số 35/NQ-CP). Nghị quyết số 35/NQ-CP đề cập đến mục tiêu, nguyên tắc cũng như các nhiệm vụ và giải pháp để các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện có hiệu quả để bảo đảm quyền kinh doanh, quyền bình đẳng tiếp cận nguồn lực và cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Các nhiệm vụ được Chính phủ giao cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) thực hiện theo Nghị quyết số 35/NQ-CP liên quan tới điều hành chính sách tiền tệ, thực hiện các biện pháp chỉ đạo, điều hành thị trường ngân hàng, trong đó có vấn đề bảo đảm việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp…, trong đó tập trung rà soát, đổi mới quy trình cho vay theo hướng đơn giản hóa thủ tục vay vốn, giảm bớt phiền hà cho khách hàng, bảo đảm an toàn vốn vay và phù hợp với quy định của pháp luật; nâng cao năng lực thẩm định để rút ngắn thời gian giải quyết cho vay, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng và nghiên cứu, xây dựng các chương trình vay vốn với lãi suất hợp lý, khuyến khích đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng để tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, vấn đề tiếp cận tín dụng vẫn còn là khó khăn của một số doanh nghiệp mặc dù chỉ số tiếp cận tín dụng đã được cải thiện.
Để tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021 theo Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ đòi hỏi NHNN cần đẩy mạnh hơn nữa các biện pháp để vừa tháo gỡ khó khăn để doanh nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận nguồn vốn tín dụng vừa bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng mà thực chất là bảo đảm hài hòa lợi ích của tổ chức tín dụng (cấp tín dụng nhưng phải tuân thủ quy định về kiểm soát rủi ro, giới hạn để bảo đảm an toàn hoạt động) với quyền tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp (thực hiện kế hoạch, chiến lược kinh doanh với việc bảo đảm khả năng trả đã được cấp tín dụng). Trong mối tương quan hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, NHNN đóng vai trò vừa là chất xúc tác (tạo lập khuôn khổ pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng) vừa là người “kìm giữ”, cảnh báo, điều tiết, định hướng hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng đi đúng hướng, hiệu quả, an toàn.
2. Khuôn khổ pháp luật điều chỉnh quan hệ tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp
Tín dụng là một hoạt động ngân hàng thuộc phạm trù kinh tế chỉ mối quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định; [2] là một dạng quan hệ vay tài sản nhưng đối tượng hoàn trả không phải là vật cùng loại mà là tiền. Về bản chất, tín dụng là “
việc chuyển giao vốn dựa trên cơ sở tín nhiệm và theo nguyên tắc hoàn trả, theo đó, người cho vay chuyển giao quyền sử dụng một lượng tài sản cho người vay trong một thời hạn nhất định”. [3] Trong kinh tế học tiền tệ, thuật ngữ tín dụng thường dùng để chỉ các loại hình cho vay đem lại hiệu quả tiền tệ như làm tăng việc cung cấp tiền tệ sẽ dẫn tới việc tăng tiền gửi của ngân hàng hay làm tăng các hình thức thay thế tiền tệ như tín dụng thương mại. [4] Từ lý thuyết về lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại, tác giả Huỳnh Thế Du cho rằng tổ chức tín dụng khi xác lập giao dịch cấp tín dụng không có thông tin liên quan đến người đề nghị cấp tín dụng nên đã sử dụng cơ chế sàng lọc thông tin để ra quyết định cấp tín dụng, trong đó, tài sản bảo đảm có vai trò trong việc ngăn ngừa tâm lý ỷ lại. Bởi lẽ, khi tài sản của khách hàng vay được đem đi bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ phát sinh từ cam kết cấp tín dụng thì người đề nghị cấp tín dụng sẽ bị mất nó nếu như khoản vay của họ không được đầu tư cẩn thận và rủi ro xảy ra. Chính vì vậy mà họ phải thận trọng hơn khi thực hiện quyết định đầu tư của mình.[5] Điều này có thể lý giải là do hoạt động cấp tín dụng có độ rủi ro cao hơn, vì việc thu hồi khoản tiền đã cấp tín dụng cho khách hàng phụ thuộc vào khả năng, thiện chí trả nợ của khách hàng, bởi lẽ, việc có thu hồi được vốn đã cấp tín dụng hay không sẽ quyết định đến vị thế, uy tín, thương hiệu của tổ chức tín dụng trên thị trường.
Tiếp cận tín dụng là việc khách hàng có cơ hội được sử dụng nguồn vốn từ các trung gian tài chính để phục vụ cho các nhu cầu của mình
Tiếp cận tín dụng là việc khách hàng có cơ hội được sử dụng nguồn vốn từ các trung gian tài chính để phục vụ cho các nhu cầu của mình thông qua đề nghị cấp tín dụng. Trên cơ sở đề nghị cấp tín dụng, phương án sử dụng vốn, khả năng trả nợ cũng như các rủi ro tiềm tàng khác, tổ chức tín dụng đánh giá mức độ rủi ro và ra quyết định cấp tín dụng khi khách hàng bảo đảm khả năng trả nợ và độ rủi ro là thấp nhất với các tiêu chuẩn, điều kiện của pháp luật cũng như các tiêu chuẩn riêng của từng tổ chức tín dụng dựa trên yêu cầu kiểm soát rủi ro. Do đó, bảo đảm sức mạnh quyền pháp lý (liên quan đến hệ thống pháp lý về tài sản bảo đảm, pháp luật phá sản hiện đại và chặt chẽ để bên đi vay có thể sử dụng tài sản của mình, đặc biệt là động sản để bảo đảm cho các khoản vay) và chiều sâu thông tin tín dụng (để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng vay dựa trên việc phân tích các thông tin thu thập được từ ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính phi ngân hàng, tổ chức phát hành thẻ tín dụng, nhà cung cấp dịch vụ bán lẻ hoặc các cơ quan tư pháp, cơ quan quản lý hộ tịch…) là hai chỉ số đánh giá khả năng tiếp cận tín dụng của Ngân hàng Thế giới khi đánh giá, xếp hạng tiếp cận tín dụng của mỗi quốc gia.[6]
Khuôn khổ pháp luật điều chỉnh việc tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp đã được quy định ở nhiều văn bản pháp luật với các cách tiếp cận khác nhau, song luôn trên tinh thần tuân thủ quy luật của thị trường. Luật Doanh nghiệp 2014 không quy định vấn đề tiếp cận tín dụng là quyền lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn (Khoản 3 Điều 7). Theo quy định của Luật Đầu tư 2014, được tiếp cận, sử dụng các nguồn vốn tín dụng, quỹ hỗ trợ, sử dụng đất đai và tài nguyên khác theo quy định của pháp luật là một trong những nội dung chính sách về đầu tư kinh doanh (Khoản 2 Điều 5). Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, việc tiếp cận tín dụng do Chính phủ quyết định “chính sách hỗ trợ tổ chức tín dụng tăng dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa; khuyến khích tổ chức tín dụng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa dựa trên xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp và biện pháp phù hợp khác; khuyến khích thành lập tổ chức tư vấn độc lập để xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp nhỏ và vừa. Doanh nghiệp nhỏ và vừa được cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh khả thi, tăng cường năng lực quản trị, kỹ năng quản lý, minh bạch hóa tài chính của doanh nghiệp để nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng.” (Khoản 1, Khoản 2 Điều 8 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa). Bên cạnh nguồn vốn tín dụng, doanh nghiệp nhỏ và vừa được cấp bảo lãnh tín dụng tại Quỹ bảo lãnh tín dụng được quy định chi tiết tại Nghị định số 34/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 08/3/2018 về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo quy định tại Nghị định số 34/2018/NĐ-CP, việc bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa dựa trên tài sản bảo đảm hoặc phương án sản xuất, kinh doanh khả thi hoặc xếp hạng tín nhiệm của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa phải thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết; không được từ chối bảo lãnh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa đủ điều kiện được bảo lãnh. Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, Chính phủ quyết định chính sách cấp bù lãi suất đối với khoản vay của doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo trong từng thời kỳ. Việc cấp bù lãi suất được thực hiện thông qua các tổ chức tín dụng (Điểm d Khoản 2 Điều 17 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa).
Đối với tổ chức tín dụng – doanh nghiệp thực hiện hoạt động ngân hàng dù có quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình và có quyền từ chối yêu cầu cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ khác nếu thấy không đủ điều kiện, không có hiệu quả, không phù hợp với quy định của pháp luật [7] nhưng phải có trách nhiệm: i) yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh phương án sử dụng vốn khả thi, khả năng tài chính của mình, mục đích sử dụng vốn hợp pháp, biện pháp bảo đảm tiền vay trước khi quyết định cấp tín dụng; ii) tổ chức xét duyệt cấp tín dụng theo nguyên tắc phân định trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định cấp tín dụng.[8] Giao dịch cấp tín dụng theo quy định của pháp luật hiện hành được thực hiện trên nguyên tắc bình đẳng, tự chủ, tự chịu trách nhiệm giữa tổ chức tín dụng với khách hàng. Việc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay hoặc không áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận. Tổ chức tín dụng chịu trách nhiệm về việc cho vay không áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay.[9]
Để bảo đảm khả năng giám sát, kiểm tra việc sử dụng vốn của khách hàng, tổ chức tín dụng có quyền, nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng cũng như có quyền yêu cầu khách hàng vay báo cáo việc sử dụng vốn vay và chứng minh vốn vay được sử dụng đúng mục đích vay vốn. Tổ chức tín dụng có quyền chấm dứt việc cấp tín dụng, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm các quy định trong hợp đồng cấp tín dụng. Trong trường hợp khách hàng không trả được nợ đến hạn, nếu các bên không có thỏa thuận khác thì tổ chức tín dụng có quyền xử lý nợ, tài sản bảo đảm tiền vay theo hợp đồng cấp tín dụng, hợp đồng bảo đảm và quy định của pháp luật. Việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, mua bán nợ của tổ chức tín dụng thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. trong trường hợp khách hàng vay hoặc người bảo đảm không trả được nợ do bị phá sản, việc thu hồi nợ của tổ chức tín dụng được thực hiện theo quy định của pháp luật về phá sản.[10]
Khảo sát khuôn khổ pháp luật điều chỉnh quan hệ tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp cho thấy bản chất của tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp thể hiện tương quan giữa tổ chức tín dụng và khách hàng trong quá trình giao kết hợp đồng cấp tín dụng dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng. Không tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng.[11] Khách hàng có nhu cầu sử dụng vốn tín dụng ngân hàng sẽ đưa ra đề nghị cấp tín dụng gửi tới tổ chức tín dụng mà về bản chất pháp lý là đề nghị giao kết hợp đồng.[12] Tổ chức tín dụng, trên cơ sở đề nghị cấp tín dụng của khách hàng sẽ tiến hành thẩm tra điều kiện được cấp tín dụng liên quan đến tư cách chủ thể, phương án sử dụng vốn, các rủi ro tiềm tàng và nhất là khả năng trả nợ của khách hàng, từ đó ra quyết định cấp tín dụng mà về bản chất là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng [13] cấp tín dụng của khách hàng. Việc tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp, tổ chức tín dụng và doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật về cấp tín dụng trên nguyên tắc tổ chức tín dụng không được ban hành các quy định cản trở việc tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp trái với quy định pháp luật. Có thể khẳng định, nếu tổ chức tín dụng không có quy định riêng hoặc các cản trở phi chính thức (nguyên tắc ngầm, luật bất thành văn) được xem là đã thực hiện đúng các quy định về cấp tín dụng trong hoạt động kinh doanh với tư cách và vai trò là chủ thể cung ứng nguồn vốn (trung gian tài chính) trong nền kinh tế thị trường. Vấn đề trọng yếu trong bảo đảm tiếp cận nguồn vốn tín dụng của doanh nghiệp nằm ở chỗ doanh nghiệp có đáp ứng các điều kiện để được cấp tín dụng theo quy định của pháp luật, quy định nội bộ của tổ chức tín dụng nhằm kiểm soát và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng. Chính vì vậy, kết quả khảo sát khu vực doanh nghiệp của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho thấy, vấn đề tiếp cận vốn là khó khăn lớn thứ hai, chỉ sau tìm kiếm khách hàng, cao hơn cả các khó khăn về tìm kiếm lao động phù hợp, tìm kiếm đối tác, nhà cung cấp, cao hơn khó khăn về biến động thị trường, biến động chính sách pháp luật… với nguyên nhân là “buộc phải có tài sản thế chấp (86% doanh nghiệp cho rằng họ gặp phải vấn đề này); mức lãi suất và điều kiện cho vay (63% doanh nghiệp lựa chọn); 39% doanh nghiệp cho biết rằng việc “bồi dưỡng” cho cán bộ ngân hàng để vay được vốn là phổ biến” [14] không nên xem là khó khăn trong tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Nói cách khác, Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng đã thực hiện tốt các quy định pháp luật nhằm bảo đảm quyền tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Về cơ bản, có thể nhận thấy, luật “trên giấy” ở nước ta đã thể hiện rõ nghiệp vụ cấp tín dụng không tạo ra rào cản nào khiến doanh nghiệp gặp khó khi có nhu cầu tiếp cận tín dụng. Các quy định về cấp tín dụng đã thể hiện rõ tính chất thị trường của quan hệ cấp tín dụng là dựa trên sự bình đẳng, cùng có lợi và tự chịu trách nhiệm ở cả phía tổ chức tín dụng cũng như khách hàng.
3. Thúc đẩy việc tiếp cận tín dụng trong hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Trong giai đoạn đẩy mạnh việc hiện thực hóa mục tiêu Chính phủ “liêm chính, kiến tạo, hành động” với nhiều quyết sách quan trọng, trong đó có việc phát triển số lượng cũng như chất lượng doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường cho thấy, Chính phủ đã và đang làm tốt việc hoạch định và triển khai chiến lược phát triển doanh nghiệp với các tầm nhìn khác nhau thì việc ban hành đồng thời nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển doanh nghiệp là rất cần thiết và có ý nghĩa. Việc ban hành và thực hiện đồng thời nhiều chủ trương, chính sách trong hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp có thể là nguyên nhân dẫn tới chồng chéo, mâu thuẫn về nội dung hoặc hiểu không đúng mục tiêu chủ trương, chính sách về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp. Dường như trong các quan niệm phổ biến hiện nay, chủ trương, chính sách về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp được hiểu và áp dụng trong thực tiễn mang nặng tính chất “phân bổ” nguồn lực vốn cho doanh nghiệp và được xem như nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan trong việc cung ứng nguồn vốn cho khu vực doanh nghiệp.
Thực tiễn giải quyết tranh chấp phát sinh từ giao dịch bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng, Ngân hàng Nhà nước vẫn tiếp tục nhận được phản ánh của một số tổ chức tín dụng liên quan đến giao dịch bảo đảm mà phán quyết của tòa án nhân dân các cấp gây bất lợi cho các tổ chức tín dụng – bên nhận tài sản bảo đảm. [15] Chẳng hạn, thực tiễn xác lập giao dịch bảo đảm bằng hình thức thế chấp bằng quyền sử dụng đất của người thứ ba cũng đã phát sinh những nguy cơ cho các tổ chức tín dụng khi tòa án nhân dân đã tuyên hủy hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của người thứ ba [16], gây nhiều tranh luận của công luận.[17]
Không những thế, trong thời gian qua, đã phát sinh thêm rủi ro cho tổ chức tín dụng khi nhận thế chấp tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất khi bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đã cấp và tòa án tuyên quyền xử lý tài sản bảo đảm “trên trời” nên tổ chức tín dụng cũng khó có thể bán tài sản bảo đảm để thu hồi vốn đã cấp tín dụng. Theo bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm của tòa án nhân tỉnh Thừa Thiên Huế, khi xác lập giao dịch vay vốn, người vay vốn đã sử dụng tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở hữu và quyền sử dụng hợp pháp của người đi vay. Điều này được thể hiện rõ trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Khi người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì ngân hàng yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm, nhưng tài sản bảo đảm đã bị cơ quan thi hành án tỉnh kê biên nhưng không thể xử lý tài sản bảo đảm vì đã bị cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sử đất ra quyết định thu hồi và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang thế chấp tại ngân hàng. Tại bản án này cũng đã tuyên ngân hàng có quyền phát mại tài sản bảo đảm là ngôi nhà tọa lạc trên mảnh đất đã bị thu hồi để thu hồi nợ, nhưng liệu ngân hàng có làm được việc này khi mà giấy chứng nhận quyền sử đất ra quyết định thu hồi và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị cơ quan cấp thu hồi?[18] Những phân tích này chứng tỏ, các rủi ro trong tiếp cận tín dụng như một biện pháp để hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp dường như phần bất lợi lại thuộc về tổ chức tín dụng. Để thúc đẩy việc tiếp cận tín dụng trong hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, trong đó, bảo đảm an toàn cho tổ chức tín dụng khi thực hiện nghiệp vụ cấp tín dụng chúng tôi kiến nghị:
Thứ nhất, cần sớm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về giao dịch bảo đảm, nhất là cần nhanh chóng ban hành Nghị định thay thế Nghị định 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ (sửa đổi, bổ sung năm 2011), trong đó cần tập trung tháo gỡ những vướng mắc, bất cập khi nhận tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất của người thứ ba cũng như xác định biện pháp bảo đảm phù hợp bên cạnh biện pháp thế chấp tài sản.
Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước cần chủ động là đầu mối trong kiến nghị với Chính phủ cũng như hợp tác với các Bộ, cơ quan ngang bộ khác để hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về đăng ký và xử lý tài sản bảo đảm.
Thứ ba, mở rộng quan niệm tiếp cận tín dụng không chỉ là tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng mà cần đẩy mạnh việc mở rộng nguồn vốn doanh nghiệp thông qua các kênh huy động vốn khác. Các phản hồi về các khó khăn trong tiếp cận của khu vực doanh nghiệp ngoài việc phản ánh hiện trạng khó tiếp cận tín dụng còn phản ánh thực trạng khác là năng lực tài chính, cụ thể là khả năng bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ của khách hàng. Do đó, tìm kiếm nguồn vốn dài hạn thông qua thị trường chứng khoán, đồng thời giảm thiểu sự lệ thuộc vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng cần được xem
là giải pháp quan trọng, lâu dài của khu vực doanh nghiệp. Khi tìm kiếm, huy động nguồn vốn từ thị trường chứng khoán, doanh nghiệp sẽ giảm thiểu được rủi ro thanh khoản (do phải lo trả nợ) mà được sử dụng nguồn vốn lâu dài cho các dự án đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu làm được như vậy, doanh nghiệp sẽ có được nguồn vốn ổn định lâu dài, bền vững phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh của mình. Giải pháp này chỉ có thể thực hiện được khi doanh nghiệp không ngừng đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh doanh như là bảo đảm cần thiết để nhà đầu tư thông qua việc góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp trên thị trường vốn.
—————
[1] Xem: Nghị quyết số 142/2016/QH13 ngày 12/04/2016 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016 – 2020.
[2] Sử Đình Thành, Vũ Thị Minh Hằng (Đồng chủ biên, 2006), Nhập môn tài chính tiền tệ, Nxb. Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, tr. 68.
[3] Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp và Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr. 765.
[4] David W. Pearce (Tổng biên tập, 1999), Từ điển kinh tế học hiện đại, Nxb. Chính trị quốc gia và Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, tr. 220
[5] Huỳnh Thế Du (2005), Tại sao tài sản bảo đảm là yếu tố quan trọng trong quyết định cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng số 2/2005, tr.38.
[6]Tài liệu hướng dẫn Chỉ số Tiếp cận tín dụng theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới, truy cập tại địa chỉ: https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/trangchu/ttsk/ttsk_chitiet?leftWidth=20%25&showFooter=false&showHeader=false&dDocName=SBV372175&rightWidth=0%25¢erWidth=80%25&_afrLoop=31797978040621577#%40%3F_afrLoop%3D31797978040621577%26centerWidth%3D80%2525%26dDocName%3DSBV372175%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3Dywq1bnwqs_51 ngày 3/4/2019.
[7] Điều 7 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2011.
[8] Khoản 1, Khoản 2 Điều 94 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2011.
[9] Xem: Điều 15 Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài) đối với khách hàng.
[10] Xem: Điều 95 Luật các Tổ chức tín dụng 2010.
[11] Khoản 1 Điều 3 Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài) đối với khách hàng.
[12] Theo quy định tại Khoản 1 Điều 386 Bộ luật Dân sự 2015 thì đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng.
[13] Theo quy định tại Khoản 1 Điều 393 Bộ luật Dân sự 2015 thì chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị.
[14] VCCI, Aus4Reform, Australian Aid, Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết 02 năm 2019 và Nghị quyết 35 năm 2016 của Chính phủ: Góc nhìn doanh nghiệp, Hà Nội, tháng 12/2019, tr.37-39.
[15] Xem thêm:
– Đoàn Đức Lương, Viên Thế Giang, Võ Thị Mỹ Hương, Pháp luật về giao dịch bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam, sách chuyên khảo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015.
– Viên Thế Giang, Các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cấp tín dụng, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 2/2015.
– Viên Thế Giang, Bất cập trong các quy định pháp luật về lựa chọn biện pháp bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng, Tạp chí Luật học số 4/2017.
– Vụ Pháp chế – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp của tổ chức tín dụng với khách hàng và đề xuất, kiến nghị sửa đổi các quy định pháp luật có liên quan, Hội thảo “Thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan đến tín dụng ngân hàng tại Tòa án nhân dân” do Tòa án nhân dân tối cao và Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam tổ chức tại Hội An, Quảng Nam, ngày 4/10/2019.
16Xem thêm:
– Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Bản án số 26/2011/KT-ST ngày 05/08/2011 về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng thế chấp của bên thứ ba vô hiệu.
– Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Bản án số 48/2011/KDTM-ST ngày 22/09/2011 về việc vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng tín dụng.
– Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng, Bản án số 05/2011/KDTM-PT ngày 25/10/2011 về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng thế chấp vô hiệu.
[17] Xem thêm:
– Dương Công Chiến (2013), Hậu họa khi hợp đồng thế chấp bị tuyên vô hiệu, truy cập ngày 25/07/2013, http://thoibaonganhang.vn/index.php/tin-tuc/2-hau-hoa-khi-hop-dong-the-chap-bi-tuyen-vo-hieu-3403.html.
– Đỗ Hồng Thái (2012), Thế chấp – Bảo lãnh hiểu như thế nào cho đúng, http://thoibaonganhang.vn/tin-tuc/8-the-chap—bao-lanh–hieu-the-nao-cho-dung-3713.html, truy cập 09/08/2012.
– Hoàng Yến (2012), “Xử án tín dụng: rối chuyện thế chấp, bảo lãnh”, Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh số 206 ra ngày 2/8/2012.
– Trương Thanh Đức (2013), Theo tòa vô giá trị, theo Bộ vô hiệu lực, Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 7/2013.
– Nguyễn Văn Bường (2010), Hợp đồng ủy quyền – những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật, Tạp chí Tòa án nhân dân số 08/2010.
[18] Xem cụ thể tại: Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (2011), Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 05/2011/KDTM-ST ngày 18/10/2011 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng.
TS. Viên Thế Giang
Theo TCNH số 4/2020