Tiêu chí đánh giá hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
Dịch vụ thẩm định giá có vai trò quan trọng khi nền kinh tế Việt Nam chuyển từ cơ chế giá hành chính sang cơ chế giá thị trường, góp phần tích cực trong việc tiết kiệm chi tiêu ngân sách nhà nước trong đầu tư, mua sắm tài sản; chống lãng phí, thất thoát, tiêu cực trong hoạt động sản xuất, kinh doanh; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Trong bối cảnh đó, việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bài viết đánh giá về một số tiêu chí đánh giá hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, đồng thời đưa ra một số đề xuất, kiến nghị trong thời gian tới.
Cùng với sự phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, nhu cầu về thẩm định giá tài sản trong xã hội tại Việt Nam ngày càng tăng. Do đó, yêu cầu đặt ra là phải đưa thẩm định giá tài sản trở thành một hoạt động dịch vụ tư vấn chuyên nghiệp, độc lập, khách quan nhằm bảo đảm cho nghề thẩm định giá phát huy tốt vai trò của mình, từ đó góp phần bảo đảm lợi ích của các bên tham gia thị trường.
Thời gian qua, Việt Nam luôn định hướng tạo môi trường pháp lý ổn định và thuận lợi để thẩm định giá tài sản thành một nghề có tính chuyên nghiệp cao; Tăng cường vai trò quản lý nhà nước (QLNN) và sự quản lý, giám sát thống nhất của Bộ Tài chính trong lĩnh vực thẩm định giá tài sản; nâng cao vai trò của tổ chức nghề nghiệp về thẩm định giá; tôn trọng quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp (DN) cung cấp dịch vụ thẩm định giá…
Hiện nay, hoạt động thẩm định giá đã có nhiều thay đổi, phát triển cả về số lượng thẩm định viên và số lượng các tổ chức tham gia thị trường thẩm định giá. Theo Cục Quản lý Giá (Bộ Tài chính), tính đến nay, cả nước có 300 DN thẩm định giá đang hoạt động, với khoảng 1.400 thẩm định viên về giá đang hành nghề. Để hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá của Việt Nam ngày càng phát triển, đáp ứng được bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, việc nghiên cứu các tiêu chí đánh giá hiệu lực, hiệu quả QLNN đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
Hiệu lực QLNN là một phạm trù xã hội chỉ mức độ pháp luật được tuân thủ và mức độ hiện thực quyền lực chỉ huy và phục tùng trong mối quan hệ giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản lý trong những điều kiện lịch sử nhất định. Hiệu lực QLNN nước đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá chỉ mức độ tuân thủ pháp luật, chấp hành mọi chỉ đạo từ các cơ quan QLNN của các DN kinh doanh dịch vụ thẩm định giá; đồng thời, biểu hiện mức độ hiện thực quyền lực Nhà nước của các cơ quan QLNN và uy tín của các cơ quan QLNN đối với các DN trong công tác QLNN về hoạt động hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá. Do vậy, việc đánh giá hiệu lực QLNN đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá có thể dựa trên tiêu chí sau:
Thứ nhất, đánh giá hiệu lực QLNN qua mức độ tuân thủ các quy định pháp luật.
Thực tế hiện nay cho thấy, các doanh nghiệp thẩm định giá phát triển “quá nóng” với những quy mô rất khác nhau, nhiều doanh nghiệp thuộc nhóm doanh nghiệp nhỏ, thậm chí siêu nhỏ. Để tồn tại, các doanh nghiệp này cạnh tranh rất mạnh với các doanh nghiệp có quy mô lớn, thậm chí cạnh tranh không lành mạnh bằng các biện pháp không phù hợp với quy định của pháp luật nhằm tranh khách hàng, không bảo đảm chất lượng, đưa ra giá dịch vụ thẩm định giá tùy tiện, dưới mức cần thiết, gây nhiễu loạn thị trường.
Cụ thể, cần xem xét mức độ tuân thủ các quy định pháp luật về cung cấp dịch vụ thẩm định giá của các DN. Đồng thời, đánh giá việc tuân thủ các quy định theo các tiêu chí, chỉ tiêu chính đối với quá trình điều tiết, kiểm tra, giám sát quá trình kinh doanh dịch vụ thẩm định giá. Thời gian qua, phần lớn DN đã chấp hành nghiêm các quy định pháp luật trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh đang diễn ra khá phổ biến, phức tạp thông qua các hành vi như: giảm giá dịch vụ bất hợp lý (chỉ bằng 50%-60% mức giá dịch vụ DN đã công bố); chi “hoa hồng”, “chiết khấu”, khuyến mại không phù hợp với quy định của Luật Cạnh tranh; sẵn sàng chấp nhận các điều kiện không hợp lý của khách hàng (thời gian, quy trình, mức giá thẩm định…).
Theo Hội Thẩm định Giá Việt Nam, tình trạng xuất hiện hoạt động của “thị trường ngầm” về giá dịch vụ thẩm định giá, chiết khấu, hoa hồng; chất lượng dịch vụ thấp; giá tài sản thẩm định không phù hợp với giá thị trường gây nợ xấu của nền kinh tế (đối với lĩnh vực thẩm định giá tài sản thế chấp vay vốn ngân hàng), tạo nghi ngờ cho khách hàng về nghề, về đạo đức, năng lực chuyên môn, chất lượng dịch vụ làm giảm uy tín, sự tin tưởng của khách hàng về nghề thẩm định giá…
Thứ hai, đánh giá hiệu lực QLNN qua mức độ hiện thực quyền lực nhà nước.
Để đánh giá được hiệu lực QLNN qua mức độ hiện thực quyền lực nhà nước, cần đánh giá trên một số tiêu chí sau:
– Mức độ thực hiện tổ chức xây dựng và triển khai định hướng phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá: Nhằm định hướng phát triển, chiến lược tổng thể cho hoạt động thẩm định giá nói chung và hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá nói riêng, ngày 28/3/2014, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ký Quyết định số 623/QĐ-BTC phê duyệt Đề án “Nâng cao năng lực hoạt động thẩm định giá của Việt Nam giai đoạn 2013-2020”. Qua đó, góp phần xây dựng môi trường pháp lý ổn định và thống nhất trong lĩnh vực thẩm định giá; phát triển nghề thẩm định giá theo lộ trình phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế và xã hội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia nền kinh tế; Đồng thời, tăng cường và nâng cao năng lực QLNN về thẩm định giá, củng cố cơ sở hạ tầng trong lĩnh vực thẩm định giá đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế…
– Mức độ ban hành pháp luật đầy đủ, đồng bộ, kịp thời để tạo điều kiện pháp lý cho phát triển hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá: Lĩnh vực thẩm định giá của Việt Nam mới xuất hiện từ những năm 1993-1994 của thế kỷ trước, còn khá non trẻ so với thế giới.
Khi Pháp lệnh Giá được ban hành và có hiệu lực năm 2002, hoạt động thẩm định giá bắt đầu được thực hiện theo quy định tại pháp lệnh này. Nghị định số 101/2005/NĐ-CP của Chính phủ về thẩm định giá ra đời ngày 03/8/2005 và sau đó là việc Bộ Tài chính ban hành các thông tư và quyết định liên quan đến hoạt động thẩm định giá có thể coi là một bước đánh dấu sự phát triển của nghề thẩm định giá ở Việt Nam. Trong giai đoạn này, hoạt động thẩm định giá có nhiều thay đổi, phát triển cả về số lượng thẩm định viên và số lượng các tổ chức tham gia thị trường thẩm định giá.
Đặc biệt, đáp ứng tình hình mới, ngày 20/6/2012, Quốc hội ban hành Luật Giá số 11/2012/QH13. Ngày 06/8/2013, Chính phủ cũng ban hành Nghị định số 89/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Giá về thẩm định giá. Sau đó, các bộ, ngành và địa phương, đặc biệt là Bộ Tài chính – đầu mối chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng QLNN về thẩm định giá với các nhiệm vụ, quyền hạn cũng đã ban hành hàng loạt thông tư như: Thông tư số 46/2014/TT-BTC, Thông tư số 38/2014/TT-BTC, Thông tư số 204/2014/TT-BTC, Thông tư số 11/2019/TT-BTC… hướng dẫn các đối tượng liên quan thực hiện. Qua đó, khuôn khổ chính sách đã dần hoàn thiện theo hướng đầy đủ, đồng bộ, kịp thời để tạo điều kiện pháp lý cho phát triển hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá.
Theo tapchitaichinh.vn
Tuyên bố trách nhiệm: Bài viết được lấy nguyên văn từ nguồn tin nêu trên. Mọi thắc mắc về nội dung bài viết xin liên hệ trực tiếp với tác giả. Chúng tôi sẽ sửa, hoặc xóa bài viết nếu nhận được yêu cầu từ phía tác giả hoặc nếu bài gốc được sửa, hoặc xóa, nhưng vẫn bảo đảm nội dung được lấy nguyên văn từ bản gốc